Đừng Bệnh Ở Việt Nam!―Trần Thắng
Tác giả bài viết là bác sĩ Trần Thắng, sống ở Na Uy, trong một lần về thăm quê hương, ông cảm khái kêu lên “đừng bệnh ở Việt Nam” như sự chua xót, chia sẻ suy nghĩ của mình về số phận các người bệnh tại Việt Nam.
Cơ may cho tôi được tìm hiểu thêm về hệ thống y tế Việt Nam đến thật bất ngờ, và đã cho tôi nhiều suy nghĩ về số phận con người.
Sau 42 năm sống xa xứ, lần đầu tiên tôi quyết định về Việt Nam “ăn Tết.”
Tôi về Sài Gòn 5 ngày trước Tết để sắp sửa trước khi về quê ăn Tết với người thân. Tết ở Sài Gòn năm nay không có không khí như tôi nghĩ. Chợ hoa vắng người, sức mua sắm giảm nhiều vì kinh tế khó khăn và tình trạng thất nghiệp gia tăng.
Chuyện không vui xảy ra vào sáng Mùng Một Tết, người thân của tôi té sau khi đi từ nhà tắm ra, và bà bị gãy cổ xương đùi.
Sau khi xác định qua chụp hình X-ray, tôi phải liên lạc bạn bè đồng nghiệp và cũng là bạn học thời trung học để lo cho bà đi mổ. Bác sĩ M. học cùng trường và quen thân, là bác sĩ chuyên khoa chỉnh hình đã tận tình giúp đỡ: giới thiệu bệnh viện và liên lạc bác sĩ mổ giỏi. Anh góp ý nên đi bệnh viện tư ở Sài Gòn.
Từ quê lên Sài Gòn mất 4-5 giờ xe. Các bệnh viện chỉ mổ những ca thật cấp thiết vì bác sĩ và y tá (ở Việt Nam gọi là điều dưỡng) nghỉ Tết.
Tôi được khuyên đừng đưa bà lên trước Mùng Sáu. Vì bà dùng thuốc loãng máu nên cũng phải đợi. Ở Na-Uy những trường hợp này sẽ phải mổ trong vòng 48 giờ.
Bệnh Viện
T.A. là bệnh viện tư nhân người thân tôi nằm. Thủ tục đầu tiên là nộp giấy chứng minh thư, giấy bảo hiểm sức khỏe, tiền ứng cho tiền phòng. Có nhiều mức giá: phòng sáu, ba, hai hay một người, ngoài ra có phòng VIP. Chúng tôi chọn phòng một người với giá 980,000 VNĐ/ngày. Đặt cọc trước 5 ngày.
Trong phòng có một giường cho bệnh nhân và một giường cho người thân đi “nuôi” bệnh nhân. Vì vợ chồng tôi ở lại, nên mướn thêm ghế bố 30,000 VNĐ mỗi ngày. Tiền phòng bao gồm cháo buổi sáng, ba món trưa và tối cho người bệnh, một lần lau sàn nhà và một lần lấy rác.
Thay tấm trải và mền vệ sinh cho bệnh nhân là trách nhiệm người nhà!
Điều dưỡng
Trách nhiệm điều dưỡng: đưa thuốc cho người nhà để cho bệnh nhân uống, thay băng, thử máu, chích thuốc. Ngoài những việc khác người nhà phải lo cho bệnh nhân. Cây kim chích, băng thay, từng miếng bông gòn đều được tính tiền.
-Khi họ vào phòng, họ không giới thiệu họ là ai, phần hành gì.
-Khi cần gọi họ đến, nhưng không làm gì, chỉ trả lời là “sẽ hỏi bác sĩ.”
Trong hai ngày đầu họ coi thường chúng tôi lắm. Sau khi mổ xong người thân tôi mê sảng và sốt. Tôi yêu cầu đo nhiệt độ, thử máu và xem xét cho trụ sinh. Họ không làm ngay.
-Tôi yêu cầu gặp bác sĩ D., người mổ và người tôi quen.
-Điều dưỡng thông báo là bác sĩ bận mổ.
Tôi không đồng ý và tôi tự gọi bác sĩ D. xuống ngay. Từ khi bác sĩ thông báo cho họ biết tôi là ai, họ đã làm theo yêu cầu của tôi không cần thông qua bác sĩ D. nữa. Tôi thật sự rất khó chịu tính quan liêu và kiêu ngạo.
Bệnh nhân gãy xương và sau khi mổ với cơn đau dữ dội nhưng họ chỉ cho Paracetamol để giảm đau. Tôi phải yêu cầu dùng morfin và chấp nhận trả tiền họ mới cho. Rõ khổ.
Bác sĩ
Ngoài bác sĩ D. quen biết và biết tôi làm gì, còn những bác sĩ khác thì hỡi ơi!
Hôm bà bị mê sảng, có một bác sĩ đến. Ông vào phòng với một điều dưỡng. Ông không tự giới thiệu mình là ai và vào làm gì. Ông hỏi bệnh nhân tên gì, tại sao vào đây?
Khi nghe bị gãy cổ xương đùi, ông ta chỉ xoáy vào việc là có phải do choáng váng, mất thăng bằng và té. Ông chỉ muốn xác định là do tai biến đưa đến té. Ông hỏi có dùng thuốc loãng máu vì sao? Tôi giải thích là do trước đây vài năm có triệu chứng tai biến và khi dùng thuốc loãng máu, triệu chứng không còn sau khi uống thuốc vài phút, từ đó bác sĩ bệnh viện cho dùng tiếp.
Ông ta không nhìn tôi mà chỉ chăm chăm hỏi bà cụ. Tôi không thể hiểu ông đang làm gì. Một người đang mê sảng không thể nhớ hay có khả năng trả lời.
Tôi phải ngắt lời và hỏi ông là ai? Ông bảo là bác sĩ chuyên khoa thần kinh, tên S., ông muốn bà cụ phải chụp hình MRI để xác định đã bị tai biến và khi ấy mới tiếp tục dùng thuốc loãng máu. Tôi cũng xin phép tự giới thiệu về mình và giải thích yếu tố phòng hộ ban đầu đủ để bà cụ dùng thuốc loãng máu (tiểu đường, cao áp huyết, triệu chứng tai biến). Xác định có tai biến để dùng thuốc loãng máu là phòng hộ thứ hai.
Người mê sảng không thể nằm yên 30 phút để chụp MRI và không bác sĩ nào đi lấy bệnh án người mê sảng khi không nói chuyện với người nhà.
Tôi trả lời tôi không đồng ý chụp MRI, tôi tự quyết định cho bà dùng thuốc loãng máu và tôi không cần bác sĩ S. ở đây. Tôi không đồng ý trả tiền cho sự có mặt của bác sĩ.
Tôi đã quen với môi trường làm việc bệnh viện Na Uy 30 năm. Khi bệnh nhân nằm viện, mọi thứ đều được bác sĩ, y tá và trợ tá lo. Người thân không được ở lại bệnh viện. Ở Việt Nam hoàn toàn trái ngược. Ở Việt Nam, ba y tá lo cho 30 bệnh nhân cũng không mệt. Bên Na Uy, một y tá lo cho hai bệnh nhân là bù đầu bù cổ.
Tôi nghĩ những phòng ba đến sáu bệnh nhân, người thân lo cho bệnh nhân họ sẽ nằm ở đâu. Nằm dưới gầm giường chắc?
Cùng là số phận con người và bệnh nhân, nhưng bệnh nhân ở Na Uy được đối xử đàng hoàng và đúng tình con người. Tôi thật sự không thể tưởng tượng hoàn cảnh bệnh nhân ở bệnh viện công ở Việt Nam thì sao?
Chi phí tôi phải trả cho năm ngày nằm viện và mổ là 37 triệu VNĐ và bảo hiểm trả 52 triệu VNĐ. Với số tiền gần 80 triệu VNĐ có thể là cả gia tài cho một gia đình.
Qua đây tôi càng thương cho số phận những người dân trong nước. Còn nhiều người lo không đủ cho chỗ ở, miếng ăn. Chắc nhiều người lo sợ bị bệnh và người thân bị bệnh. Không có quen biết và kém tài chính sẽ khó khăn lắm.
Trần Thắng
Dựng Lại Niềm Tin—Lê Kim Nga K27/1
Dựng lại niềm tin. Anh ơi đúng đó!
Em hân hoan trong hạnh phúc vô ngần
Bao năm qua lòng thắc mắc hoang mang
Rồi tự hỏi, lẽ nào tình rạn vỡ?
Tình vẫn nặng nên lòng em mãi nhớ!
Bao máu xương đã đổ xuống chiến trường
Bao anh linh với những nỗi đau thương
Hy sinh đó, không thể nào vô nghĩa!
Dựng lại niềm tin. Lòng càng thấm thía
Uy danh xưa người lính chiến Cộng Hoà
Niềm tự hào trường Võ Bị Quốc Gia
Bao ngưỡng mộ từ trong và ngoài nước.
Vẫn còn đó niềm tin yêu ngày trước
Dựng lại đi anh, cho mơ ước hồi sinh
Cho mầm xanh con cháu lại thắm tình
Nhớ nguồn cội thuở nào an- pha đỏ.
Nơi quốc nội, em đôi lời thầm ngỏ
Các anh ơi hãy dựng lại niềm tin
Thời gian trôi, ai đâu thể níu kìm
Và cứ thế cuốn đời người trôi mất.
Với ý chí với tấm lòng son sắt
Rồi cùng nhau đoàn kết lại nha anh!
Dấn thân đi anh cho khí thế bừng nhanh
Cùng bước tới chào mừng ngày Đại Hội.
Lê Kim Nga K27/1
Bài Hát Hay Nhất Trong Đêm Giáng Sinh
Truyện kể rằng, tại Xứ Đạo Nikolauskirche thuộc một thành phố nhỏ bên nước Áo, tên là Oberndorf bei Salzburg, có một vị linh mục trẻ vừa được sai về làm cha xứ ở đó, ông tên là Joseph Mohr. Mùa Giáng Sinh năm đó, ông muốn dạy các trẻ em và những người chăn cừu trong giáo xứ hát bài thánh ca Giáng Sinh trước hang đá trong Thánh Lễ Vọng Chúa Giáng Sinh.
Đang khi lũ trẻ đùa giỡn cười khúc khích, Cha Mohr nói: “Nào các con, hãy chuẩn bị, im lặng và hát theo nhé!” Và cha đặt tay lên cây đàn organ của nhà thờ để bắt đầu dạo nhạc. Nhưng kỳ lạ thay, các phím đàn không có tiếng, thử đi thử lại không được, Cha Mohr mở nắp đàn ra và thấy có mấy con chuột chạy trong đó, các ống dây của đàn đã bị chuột cắn đứt… Cha buồn rầu vì như thế là sẽ không kịp sửa đàn. Chỉ còn vài giờ nữa là đến lễ Vọng Giáng Sinh rồi….
Trong lúc buồn rầu, cha Mohr đến trước bàn thờ cầu nguyện với Chúa xin cho mình được bình an. Ngay lúc đó cha chợt nhớ đến người bạn của mình là Franz Xaver Gruber – người thầy dạy học, và cũng là người nhạc sĩ thường đánh đàn trong nhà thờ. Cha liền đi đến nhà người bạn của mình và nói với bạn: “Tôi cần anh giúp tôi soạn nhạc để đàn bằng guitar cho một bài hát đêm Chúa Giáng Sinh, vì đàn nhà thờ đã hư.” Cha Mohr rút trong túi ra một bài thơ về Chúa Giáng Sinh mà ông đã viết cách đây một năm đưa cho bạn mình xem thử. Cầm lấy bài thơ, Franz đọc qua rồi đem cây đàn guitar ra dạo thử và hát cùng với cha Mohr. Và người ta kể lại rằng, đêm Giáng Sinh 24 tháng 12 năm 1818, toàn thị trấn đó gần như đứng lặng trước điệu nhạc và lời bài hát của Cha Mohr và Thầy Franz.
Bài hát ấy tên gọi là “Stille Natch, Heilige Nacht” (Silent Night – Đêm Thánh Vô Cùng.) Nó được hát sau khi cha Mohr đọc Phúc Âm trong Thánh Lễ, và cả dân làng đã cùng nhau hát sau Thánh Lễ vọng Chúa Giáng Sinh năm ấy. Kể từ đó, bài hát Đêm Thánh Vô Cùng được tiếp tục hát cho đến ngày hôm nay vào mỗi dịp lễ Chúa Giáng Sinh, không chỉ tại làng Obendorf nhưng được hát ở khắp mọi nơi trên toàn thế giới. Bài hát ấy trở nên một bản nhạc Giáng Sinh được hát nhiều nhất cho đến nay.
Cha Mohr và Thầy Franz lúc ấy cũng không bao giờ nghĩ rằng họ đã để lại cho thế giới một món quà Giáng Sinh đặc biệt như vậy.
Nếu không phải đến một xứ nghèo, không phải đối diện với cây đàn bị hư trước đêm Giáng Sinh, không cùng phối hợp với người bạn giáo dân, chắc chắn Cha Mohr đã không thể sáng tác được bài hát Đêm Thánh Vô Cùng. Nhưng tất cả những điều đó được diễn ra bởi một lòng mến và sự đơn sơ mà Cha Mohr dành cho Chúa và những người xung quanh ông.
Mùa Thu Trên Những Cánh Đồng — Nguyễn Thị Hải Hà
Mùa thu là mùa của thi ca. Nghe câu hát, “Hồn thu theo gió đến ngọn núi chót cao cạnh mây”[1] tôi tự hỏi, có cái gọi là hồn thu không? Cái chất tinh túy, chất thơ, cái cốt lõi, cái hồn của mùa thu ở đâu?
Có lẽ, chất thơ của mùa thu nằm ở sự thay màu của lá. Và ở trong màu trời khi trong xanh khi xám bạc, không khí lành lạnh, trong hơi sương, khói sóng trên sông, ánh trăng, và còn nhiều không thể kể hết.
Từ giữa Tháng Chín đến giữa Tháng Mười lá cây bắt đầu đổi màu. Những dây leo một chùm năm lá như Virginia creeper trở màu, đỏ trước tiên. Loại dây leo này mềm mại uyển chuyển có thể leo lên dây điện hay vách tường nhà, rất đẹp mắt.
Khoảng giữa Tháng Mười đứng dưới tàng cây nhìn lên, có thể bắt gặp những chùm lá màu đẹp. Đỏ ối như lá sồi tía và lá phong đỏ. Vàng và cam của lá phong vàng. Đứng trong rừng thu lúc có nắng, ánh sáng sẽ có màu vàng hay màu hồng như thể bạn đeo một lớp kính màu. Vào khoảng giữa Tháng Mười Một, lá cây birch, cây elm có màu vàng của kim nhũ, óng ánh như mạ bạc. Tôi thích chụp ảnh lá khi ánh sáng chiếu phía sau chùm lá, vì nhìn thấy màu lá tươi và lóng lánh hơn.
Đứng trong rừng cây mùa thu bạn có thể thấy cây mà không thấy rừng. Để thấy cái đẹp của rừng thu, cần có tầm nhìn từ xa. Từ bờ sông hay bờ hồ nhìn sang bên kia, từ trên đồi cao nhìn xuống thung lũng, nhìn dọc theo con suối, ở những cung đường quanh co, hay uốn lượn quanh núi đèo, và nếu thuận chiều nắng sẽ nhìn thấy toàn vẹn vẻ đẹp của rừng thu. Từ trên cao nhìn xuống, những ngọn cây màu đỏ màu cam giống như những đốm lửa cháy rực.
Nhà thơ Isabel Neill trong bài thơ October đã dùng chữ gypsie fires[2] để tả những ngọn cây màu đỏ, cam, và vàng. Lửa giả, lửa phép, lửa nhiệm mầu, lửa thắp trên cây. Ở nơi có sông dài và hồ rộng sẽ có bóng cây phản chiếu xuống nước tạo thành những hình ảnh đẹp mắt. Nếu nơi bạn ở không có núi cao, sông suối dài hay hồ rộng, đứng ở ven bìa những cánh đồng rộng bạn sẽ nhìn thấy cái đẹp của rừng thu. Mùa thu cũng như một bức tranh to, hay một người phụ nữ đẹp, nhìn từ xa sẽ thấy cái đẹp toàn vẹn hơn.
Mùa thu đẹp nhất là lúc nào? Mỗi người sẽ có câu trả lời khác nhau. Cây dogwood khi lá đổi màu thường có sắc tím nhất là ở những nơi khuất nắng. Tôi thích nhìn rừng phong sau cơn mưa, trời có nắng hửng lên, vỏ cây màu sậm, màu lá vàng lá đỏ phản chiếu ánh nắng lóng lánh. Đó là những lúc khi đang lái xe tôi muốn ngừng xe lại để chụp ảnh. Dĩ nhiên là không thể ngừng, vì nhiều lý do, trong đó có lý do là sợ bị hỏi có khùng không. Hay lúc lái xe quanh ngọn đèo nhìn thấy lá đủ thứ sắc màu, và sau cơn mưa có cầu vồng xuất hiện. Đó là những lúc mùa thu đẹp nhất. Đẹp, lúc ấy, vì cái đẹp này nằm ngoài tầm tay của mình. Với tôi, mùa thu đẹp nhất là khi mùa thu sắp tàn.
Như đã nói, nhìn mùa thu bên rìa những cánh đồng rộng sẽ thấy mùa thu rất đẹp. Gần nhà thờ Pillar trên đường trail Raritan and Delaware, có vài cánh đồng bắp, không lớn lắm nhưng cái màu nâu của những cánh đồng bắp mùa thu khiến tôi nghĩ đến những bức tranh nổi tiếng. Khi starlings, một loại chim màu đen giống như chim sáo, nhỏ hơn quạ, bay thành từng đàn cả ngàn con lượn lên đáp xuống cánh đồng bắp đã thu hoạch, tôi nghĩ đến vẻ đẹp của bức tranh cánh đồng lúa mì và đàn chim quạ của Van Gogh.
Hằng năm, hai lần, vào cuối thu và đầu xuân, tôi thường gặp một đàn sếu lông xám mặt đỏ, sandyhill cranes, đến ăn hạt bắp khô tích trữ năng lượng để bay về miền ấm, và khi tiết trời ấm áp chúng trở lại nơi này ăn cho no trước khi quay về quê cũ.
Ruộng bắp khô mùa thu
Đàn hạc xám đến ăn hằng năm
Còn ghé thăm chốn này?
Cách cánh đồng bắp này, độ ba miles về hướng Nam, có một cánh đồng cỏ. Để xây những trụ điện cao thế người ta đã phá rừng. Khoảng đất trống dọc theo những trụ điện cao thế trở thành cánh đồng. Mùa xuân hoa diên vỹ mọc. Mùa hè cỏ mullein và cỏ lau. Đường trail trải đất và đá đỏ. Màu đất đỏ dường như lan tỏa đến cánh đồng khiến cỏ khô cũng có màu đỏ sậm. Chỗ này nhiều lần tôi gặp vạc xám (great blue heron) bay lượn thẳng cánh.
Ở một góc nhỏ cạnh đường trail giáp với đồng cỏ, có một tổ chim nhỏ như cái chung trà. Tôi thường thấy một đôi chim finch bay lượn chập chờn ở đây. Cái tổ hình như xây dang dở, rồi bị bỏ hoang, khuất trong cành lá rậm rạp mãi đến mùa thu khi bụi rậm dọc đường trail tàn rụi hết tôi mới nhìn thấy tổ chim. Tự hỏi cái tổ bé như thế thì cái trứng nó còn bé đến cỡ nào?
Xa thật xa, phía sau trụ điện cao thế có một ngôi nhà màu trắng, và bên cạnh là một ngôi giáo đường cũng màu trắng. Phía trước ngôi nhà và giáo đường là con đường chạy dọc theo sông Millstone. Đứng đây, đúng giờ người ta sẽ được nghe tiếng chuông giáo đường ngân nga. Điều này làm tôi nhớ đến một bài hát Việt “Tiếng Chuông Chiều Thu” của Tô Vũ.
Người phương trời xa xôi. Gửi em lời yêu thương khi lòng mơ màng trầm lắng tiếng chuông chiều thu.
Có lần tôi nghe tiếng chuông chùa, tiếng đại hồng chung, khiến tôi bàng hoàng ngẩn ngơ không biết mình có nghe lầm hay không. Có lẽ gần đây có chùa thờ Phật?
Duke Farms, cách nhà tôi độ nửa giờ lái xe, có một cánh đồng cỏ khá rộng. Mùa thu, hàng cây ginko biến thành màu vàng chanh. Trên đồng, cỏ màu hồng và goldenrod màu vàng tươi lẫn vào những bụi cỏ lau khô tạo thành màu sắc rất thu hút. Cánh đồng nhiều màu sắc đầu thu của Duke Farms làm tôi nghĩ đến thảo nguyên của Neil Gaiman trong quyển truyện Stardust.
Thảo nguyên là sự náo loạn màu sắc, giàn giao hưởng âm thanh, buổi đại yến của hương thơm. Hoa dại đủ thứ màu, bướm đủ mọi cỡ, chim với nhiều loại tiếng hót. Có tiếng ong vo ve, tiếng dế rỉ rả, tiếng ếch nhái rộn ràng. Có tiếng nước chảy róc rách, gió thì thầm, và tiếng lá rì rào. Thảo nguyên là một nơi chốn bạn có thể quên hết những mối bận tâm, và chỉ thấy vui vẻ hạnh phúc.
Còn một thảo nguyên nữa, rộng lớn hơn gấp mấy lần so với những cánh đồng gần nhà tôi. Năm 2021, trên thảo nguyên của Yellowstone National Park, tôi bắt gặp màu nâu của mùa thu mà tôi rất yêu thích. Màu nâu này tuy nhạt hơn nhưng cũng khiến tôi nghĩ đến những bức tranh vẽ đồng cỏ ở Maine của Andrew Wyeth.
Tôi chưa hề được nằm trong những cánh đồng này, nhưng thử tưởng tượng nằm ở đây ngó trời sao chắc là hồn thơ lai láng. Người không biết làm thơ có lẽ cũng ráng được vài câu ngô nghê chăng?
Lâu rồi, khi mới lần đầu đọc quyển truyện Rừng Na Uy của Haruki Murakami tôi đã chú ý đến đoạn văn nói về cánh đồng của ông.
“Cánh đồng là nơi mà thời gian đứng im, nơi chúng ta có thể trốn cuộc đời và những điều bất an của đời sống. Nó là một chỗ mà ta có thể là ta, không cần nhiều lời và cũng chẳng cần ẩn núp sau những cái mặt nạ. Đó là một nơi mà chúng ta có thể thấy mình đang sống, ngay cả khi tử thần đang rình rập đâu đó trong bóng tối.”
Tử thần chẳng mấy khi rình rập loài người ở những cánh đồng thu. Nhưng đối với loài thú thì cái chết đến khá dễ dàng và bất ngờ. Rùa thường hay băng ngang đường trail vào mùa thu. Nhiều lần tôi gặp mai rùa, nhỏ cỡ lòng bàn tay.
Cái mai rùa nhỏ bé
Chỉ còn lại hai lỗ trống hốc
Một buổi chiều mùa thu.
New Jersey, Sep 19, 2023
Nguyễn Thị Hải Hà
(Ảnh trong bài của tác giả)
_____
[1] Thu Trên Đảo Kinh Châu – thấy trên mạng ghi tên tác giả bài hát là nhạc sĩ Lê Thương.
[2] Now gypsy fires burn bright in every tree. October – Isabel Neill
Đi Tìm Thu Vàng Ở Cali—Trịnh Thanh Thuỷ
Nói đến mùa thu, hình ảnh đậm nét nhất khiến chúng ta liên tưởng ngay đến là những chiếc lá vàng. Khi thiên nhiên thay áo, có lẽ màu vàng của lá qua quá trình chuyển màu đập vào thị giác con người mạnh mẽ nhất. Hơn bao giờ hết, cảnh đẹp, buồn, thơ của thu quyến rũ và chạm sâu đến tận đáy trái tim của những tâm hồn nhạy cảm, yêu nghệ thuật, cái đẹp và chuộng thiên nhiên.
Con đường gần hồ Convict Lake
Bên bờ hồ Convict Lake
Hồ Convict Lake
Khác với mùa xuân là mùa của hoa, thu là mùa của lá. Albert Camus đã ví “Thu là mùa xuân thứ hai, khi mỗi chiếc lá là một bông hoa”. Thu là những bức tranh, bức hình tuyệt đẹp của mẹ đất. Thu là nắng, gió, sương, khói, sông, núi, nàng thơ. Thu là tất cả những gì nhẹ nhàng, êm ả, lãng mạn. Thu là nguồn cảm hứng vô tận cho những tác phẩm ra đời. Con người đi tìm cảnh thu để thưởng ngoạn và sáng tác. Tuy nhiên, những kẻ thực sự săn tìm mùa thu nhiều nhất có thể là nói là giới nhiếp ảnh. Mùa thu là mùa săn ảnh bận rộn nhất của họ. Các địa điểm có lá vàng đẹp đều là điểm nhắm cho các cung đường và hành trình của những chuyến đi.
Ở Hoa Kỳ, muốn biết lá vàng ở đâu đẹp và rực rỡ nhất bạn chỉ việc leo mạng hỏi ông Google, tìm Fall Foliage Prediction Map, là bản đồ thời gian và điạ điểm có lá vàng, bạn sẽ có đủ thông tin cần thiết. Nếu có điều kiện và phương tiện di chuyển bạn có thể mua vé máy bay hoặc theo tour du lịch đến những nơi có mùa thu với đủ sắc màu xanh, đỏ, cam, vàng, nâu như những công viên quốc gia hoặc núi đồi, sông suối ở các tiểu bang Đông Bắc nước Mỹ.
Các bạn ở Cali có thể lái xe đi về phía bắc Cali gần công viên quốc gia Yosemite, là nơi có rất nhiều cảnh thiên nhiên đặc biệt với biết bao lá vàng. Tuy nhiên, tìm một nơi có đủ điều kiện thuận lợi lý tưởng cho một bức hình đẹp tuyệt vời ra đời vẫn cần có người thông thạo nơi chốn dẫn đường.
Yosemite Valley View
Mono Lake
Gần Mammoth Lake
Năm nay tôi theo chân hội ảnh VNPC đi tìm lá vàng ở khu vực Bishop- Yosemite trong mấy ngày cuối tuần.
Địa điểm đầu tiên chúng tôi trực chỉ là hồ North Lake của vùng Bishop. Rời Little Saigon từ 10 giờ đêm, chúng tôi cố gắng lái xe đến hồ trước khi mặt trời thức dậy. Mặt trời còn được ngủ nhưng dân săn ảnh không dám ngủ vì phải rình ghi hình khuôn mặt đỏ hồng của ông khi ông vừa thức giấc !!! Với người chụp ảnh, buổi sớm mai và hoàng hôn là những giờ vàng mà ánh sáng đẹp nhất nên muốn có hình đẹp, họ phải ra đi khi trời chưa sáng và trở về lúc mặt trời khuất núi từ lâu. Tôi luôn gọi đùa họ là những người tự hành xác. Thật vậy, nếu bạn đã từng chứng kiến những NAG cao tay, chuyên môn chụp những thú vật hoang dã, bạn mới hiểu sự kiên nhẫn của họ đến độ nào. Họ nấp một chỗ gần tổ chim đại bàng, chờ con trống mang mồi về trao cho con mái ở trên không để chụp hình. Họ ghi lại những giờ phút ngoạn mục trao mồi ấy, cả những phút một con khác từ đâu bay đến cướp mồi. Họ phải nghiên cứu kỹ thói quen, chu trình đi và về, cách kiếm mồi của từng loại chim để có thể phục kích với cái ống nhắm ghi hình khổng lồ như một khẩu Bazooka bắn xe tăng.
Cái khó khăn là không thể lại gần động vật hoang dã, chỉ động nhẹ là chúng bay hay chạy mất, mà khi ghi hình, hình ảnh phải đẹp và rõ nét, cả đôi mắt và thân hình nữa. Thời gian chờ đợi không phải là phút giây mà có thể là hàng nhiều giờ, đợi chúng đứng lên, vỗ cánh bay, đi săn mồi, về tổ, mớm mồi cho con. Tổ những con cò, hay những sinh vật khác có thể là đầm lầy, ghi hình cho rõ đôi khi họ phải nằm sát dưới bùn, hay leo lên mỏm đá, sự nguy hiểm có thể xảy ra trong phút đợi chờ mà họ không hề biết. Đó là chưa kể những nơi thời tiết khắc nghiệt như sa mạc nóng thiêu người hay băng tuyết gió bão. Phải nói là không đam mê và yêu cái đẹp họ không bao giờ có thể làm được những điều này.
Trở lại câu chuyện, Sau khi ngủ dật dờ trên xe, tôi theo đoàn đi bộ vào địa điểm chụp hình đẹp nhất mà anh hội trưởng dắt đường. Trời vừa hừng sáng chúng tôi đã bắt đầu chụp cảnh hồ tuyệt đẹp với cả rừng lá vàng soi bóng êm ả bên hồ. Lúc này ở Bishop, lá thu đang vào độ rực rỡ nhất. Chúng tôi tiếp tục đi qua Sabrina Lake, Silver Lake rồi ghé Mono Lake vào buổi chiều khi trời còn nắng. Mono Lake là một cái hồ đặc biệt khác hẳn những hồ khác mà nét đặc thù của nó lôi cuốn rất nhiều du khách khi ghé Cali. Nằm trong vùng Eastern Sierra ngoạn mục của California, Mono Lake là một ốc đảo nằm trên một vùng Great Basin(bể lưu vực) bị khô hạn. Nơi đây là môi trường sống quan trọng cho loài tôm và ruồi kiềm, cũng đã làm mồi quyến dụ hàng triệu loài chim thiên di đến, đi và ở lại làm tổ. Mono Lake nguyên thủy là một hồ muối soda, nông và rộng đến 18.265 ha (182 km²) và được tạo lập ít nhất 760.000 năm trước đây. Việc thiếu lối thoát nước đã gây ra mức độ tích tụ muối cao trong hồ. Chất muối này cũng làm cho nước hồ bị kiềm. Điểm đặc biệt nổi rõ lô nhô trên mặt hồ là những vùng đá vôi được gọi là Tufa nằm rải rác trông rất lạ mắt. Những tháp đá Tufa với hình thù kỳ lạ này được hình thành khi các khoáng chất cacbonat kết tủa ra khỏi vùng nước nóng. Chúng trông như những phế tích hay thành quách tí hon còn lại của một quốc gia, một triều đại bị sụp đổ qua sự tàn phá của thiên nhiên.
Hồ North Lake- Ảnh NAG Lê Tâm
Dòng suối gần Sabrina Lake
Những ngày kế tiếp chúng tôi ghé Convict Lake. Chính ở khu vực Mammoth Lake và Convict Lake này chúng tôi khám phá ra những con đường dọc theo hồ và suối đầy những lá vàng tuyệt đẹp. Buổi chiều, gió nổi khiến lá vàng xoay tròn bay nhảy khắp nơi như những điệu luân vũ bất tận của đất trời. Tôi nhìn con đường màu vàng dường như mở rộng đến vô tận đã đưa tôi vào một thế giới thơ mộng mà vô cùng xúc động. Lững lờ đây đó những đàn vịt thong thả bơi qua như nhắc nhở bức tranh thủy mạc này còn có sự sống diệu kỳ.
Cái tên Convict Lake nghe rất kỳ quặc, làm ai cũng thắc mắc. Tiếng Việt có thể đọc trại ra “Hồ Convịt”. Thực ra nghĩa của chữ “Convict” là “xử phạt, kết án”. Cái tên Convict Lake được đặt sau này, do một biến cố xảy ra vào ngày 23 tháng 9 năm 1871, ngày một nhóm tội phạm đã trốn thoát từ một nhà giam ở thành phố Carson, Nevada. Một thành viên của toán lính truy đuổi tù nhân trốn trại đã bị giết ở đây. Tên Convict Lake ra đời để tưởng niệm người đã hy sinh và ngọn núi trước mặt hồ được đặt tên ông, là Mt Morrison. Rời nơi này chúng tôi ghé ngang vài cái hồ nữa như Tioga Lake, June Lake, Tuolume Meadow và Yosemite Valley View để chụp cảnh hoàng hôn. Điểm dừng cuối của chúng tôi là Công viên quốc gia Yosemite với Glacier Point vào buổi sớm mai.
Yosemite National Park với những cây Sequoia khổng lồ, hồ, suối, thác, núi và rừng rộng lớn mênh mông là một thắng cảnh rất nổi tiếng của California. Xe chạy giữa những rừng thông ngút ngàn xen lẫn những cây Bạch Dương và Phong lá vàng, lá đỏ khiến chúng tôi không ngừng tấm tắc khen ngợi cảnh đẹp mùa thu hoang dại của núi rừng. Chúng tôi ghé Mariposa Grove là rừng cây Sequoia lớn nhất của công viên, nơi có hàng trăm cây to vĩ đại đứng sừng sững thi gan cùng đất trời. Hình lại được chụp, nhưng vội vã hơn vì chúng tôi phải vượt đường xa vạn dặm quay về nhà, chấm dứt hành trình đi tìm thu vàng của Cali.
Trịnh Thanh Thủy